Cần cơ chế, chính sách cụ thể để tăng tỷ lệ nội địa hóa ngành ô tô
Triển khai thực hiện Chiến lược phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt với những chính sách không ngừng được tạo lập, bổ sung, hoàn thiện. Tuy nhiên, Việt Nam cần nhiều cơ chế, chính sách để thúc đẩy tỷ lệ nội địa hóa của ngành công nghiệp ô tô.
Ngành công nghiệp ô tô được xem là một trong những ngành công nghiệp quan trọng, đi đầu trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, với sức lan tỏa mạnh mẽ tới nhiều lĩnh vực khác như sắt thép, luyện kim, điện tử, hóa chất, năng lượng mới… Với quy mô dân số hơn 100 triệu người, ngành ô tô giữ vai trò then chốt trong nền kinh tế Việt Nam.
Trong hơn 10 năm qua, ngành công nghiệp sản xuất ô tô Việt Nam đạt được những kết quả tích cực, rất đáng ghi nhận nhưng xét về tổng thể, vẫn còn chưa đạt được như kỳ vọng.
Hạn chế lớn nhất của ngành công nghiệp sản xuất ô tô Việt Nam phải kể đến là tỉ lệ nội địa hóa còn thấp, vẫn phụ thuộc lớn vào linh kiện nhập khẩu. Mỗi năm, ngành ô tô tiêu tốn gần 10 tỷ USD cho việc nhập khẩu linh kiện; tính cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu còn yếu, manh nha…
Điều này dẫn tới mất cân bằng cán cân thương mại, thiếu hụt giá trị gia tăng trong nước, không tạo được chuỗi cung ứng nội địa và nhất là không tích lũy được năng lực sản xuất công nghệ cao, ngoại tệ bị chảy ra nước ngoài… Những hạn chế, yếu kém này xuất phát từ nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau.
Nhà nước đã đưa ra rất nhiều chủ trương, chính sách và chính nhờ chủ trương, chính sách đó giúp đạt được tỷ lệ nội địa hóa nhất định. Nhưng kỳ vọng và mục tiêu cao hơn vẫn chưa đạt được. Đặc biệt khi ngành công nghiệp ô tô là ngành công nghiệp quan trọng đối với nền kinh tế của đất nước và đối với rất nhiều lĩnh vực khác.
Không chỉ giải quyết công ăn việc làm, ngành công nghiệp ô tô còn tạo hệ sinh thái và tạo nền tảng để phát triển các ngành công nghiệp quan trọng khác như máy nông nghiệp, thậm chí là các thiết bị hay máy móc cho quốc phòng an ninh. Do vậy, tập trung để nâng cao năng lực và tỷ lệ nội địa hóa là nhiệm vụ rất quan trọng của ngành ô tô trong thời gian tới.
Để bảo đảm cho sự phát triển nhanh và bền vững của ngành công nghiệp sản xuất ô tô Việt Nam, hướng sản phẩm ô tô "Made in Việt Nam" ra thị trường xuất khẩu, đặc biệt trong bối cảnh, tình hình mới khi đất nước ta đang bước vào kỷ nguyên giàu mạnh, phồn vinh, hạnh phúc - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, ngành công nghiệp sản xuất ô tô Việt Nam cần có sự chuẩn bị kỹ lưỡng hơn để có những đột phá và bước nhảy mới mà trước hết là phải tăng được tỉ trọng nội địa hóa sản phẩm ô tô sản xuất tại Việt Nam theo đúng nghĩa. Đây là yêu cầu khách quan và cũng là đòi hỏi bức thiết, cấp bách đặt ra.
Theo TS. Nguyễn Văn Hội, Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược, chính sách công thương (Bộ Công Thương) chúng ta cần chính sách đột phá về khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo để phát triển tất cả ngành công nghiệp phụ trợ của ngành công nghiệp ô tô. Phải xây dựng các trung tâm hỗ trợ công nghiệp ô tô và công nghiệp phụ trợ có quy mô lớn, tập trung, đủ năng lực cạnh tranh toàn cầu. Do thị trường trong nước còn nhỏ, nếu chỉ phục vụ các hãng tại Việt Nam sẽ không đủ quy mô để phát triển. Vì vậy, cần hỗ trợ mạnh mẽ doanh nghiệp Việt tham gia sản xuất trong toàn bộ chuỗi giá trị công nghiệp phụ trợ ô tô, không chỉ cung cấp cho nhà đầu tư nước ngoài trong nước mà còn phải vươn ra chuỗi toàn cầu.
Cần hướng tới xuất khẩu linh kiện ô tô, thay vì chỉ tập trung vào xuất khẩu ô tô. Với đột phá về khoa học công nghệ và kinh nghiệm của doanh nghiệp, Việt Nam hoàn toàn có thể sản xuất đầy đủ các sản phẩm công nghiệp phụ trợ như khung sườn, vỏ, đèn, xi nhan, truyền động, hệ thống bánh lái… Tuy nhiên, để làm được điều này, phải đổi mới công nghệ, vượt lên các mô hình và tiêu chuẩn cũ đã làm.
Một yếu tố then chốt là phải xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn rất cụ thể cho ngành công nghiệp Việt Nam, đặc biệt trong các lĩnh vực như pin, ắc quy, trạm sạc, bulong, ốc vít… Bên cạnh những chính sách ưu đãi hiện có, cần ban hành các cơ chế chính sách đủ mạnh hơn nữa, đặc biệt là Luật Phát triển công nghiệp trọng điểm đã được Quốc hội đưa vào kế hoạch thảo luận, thông qua trong giai đoạn tới. Đây sẽ là nền tảng quan trọng để thúc đẩy nội địa hóa ngành công nghiệp ô tô và tăng năng lực cạnh tranh của công nghiệp Việt Nam.
Theo GS.TS. Hoàng Văn Cường – Đại biểu Quốc hội, chính sách của Việt Nam trong nhiều năm qua chủ yếu dựa vào công cụ thuế quan để bảo hộ sản xuất trong nước. Tuy nhiên, công cụ này đang ngày càng giảm hiệu quả do các cam kết trong các Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) đưa thuế suất về 0%. Trong khi đó, các rào cản phi thuế quan và những ràng buộc thực chất lại chưa được quan tâm đúng mức.
Một nghịch lý lớn là thị trường Việt Nam dù tiềm năng nhưng quy mô hiện tại còn nhỏ (tiêu thụ khoảng 500.000 xe/năm) lại bị phân mảnh cho hàng chục thương hiệu. Điều này khiến sản lượng trên mỗi mẫu xe quá thấp, không đủ hấp dẫn để các nhà sản xuất đầu tư vào nội địa hóa linh kiện. Hơn nữa, Việt Nam chưa có những ràng buộc đủ mạnh về lộ trình nội địa hóa và chuyển giao công nghệ khi thu hút đầu tư nước ngoài.
Bàn về giải pháp, theo GS. Hoàng Văn Cường, đã đến lúc phải thay đổi tư duy chính sách. Thay vì chỉ tập trung vào thuế để bảo vệ nền sản xuất trong nước thì cần sử dụng các công cụ khác hiệu quả hơn.
Theo đó, cơ chế điều tiết thị phần là điều cần thiết, tránh để "chiếc bánh vốn đã nhỏ lại bị cắt nhỏ thêm". Đồng thời, Việt Nam cũng cần có chính sách để hãng xe nước ngoài hợp tác, sử dụng chung linh kiện và dịch chuyển dần chuỗi cung ứng về Việt Nam, biến Việt Nam thành một cứ điểm sản xuất trong khu vực.
Rõ ràng, nội địa hóa ô tô không phải là một mục tiêu kỹ thuật đơn lẻ, mà là "đòn bẩy tổng hợp". Nó có khả năng thúc đẩy cơ khí chính xác, luyện kim – vật liệu mới, công nghệ phần mềm – điện tử, và cả công nghiệp quốc phòng. Hiếm có ngành nào hội tụ được sức lan tỏa sâu rộng như vậy. Chính vì thế, có thể khẳng định: nội địa hóa ô tô chính là chìa khóa mở ra cánh cửa cho một kỷ nguyên công nghiệp mới của Việt Nam.
Nguyễn Long
Theo Tạp chí Môi trường Giao thông